Thứ hai, 07 Tháng 7 2014 11:16

Quán triệt NQ Trung ương 9 khóa XI về xây dựng văn hóa, con người (PV. GS. Trần Ngọc Thêm)

  • QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 9 KHÓA XI VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI 

  • XUÂN BỘ VÀ HOÀNG THÀNH (thực hiện)

  • Nguồn: Báo QĐND và tác giả

Vanhoahoc.vn: Trong ba số liên tiếp của báo Báo Quân đội nhân dân ra vào các ngày 30-6, 1 và 2-7-2014, GS. TSKH Trần Ngọc Thêm, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương, Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và ứng dụng Trường Đại học KHXH & NV thuộc ĐHQG-HCM, đã trả lời phỏng vấn của phóng viên Báo Quân đội nhân dân, giúp làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến việc quán triệt Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người.

Bài 1: Bước phát triển mới đáng phấn khởi

20140630-QDND-1

PV QĐND: Thưa GS. TSKH Trần Ngọc Thêm, ông có cảm nhận gì về thời điểm ban hành Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI?

GS. TSKH Trần Ngọc Thêm: Tôi cho rằng Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (NQTW9) ra rất kịp thời, không thể muộn hơn được nữa. Bởi lẽ, nếu thực hiện tốt NQTW5 (khóa VIII) thì có lẽ không cần phải ra NQTW9 (khóa XI), nhưng thực tiễn luôn vận động, biến đổi, cuộc sống con người và xã hội phát triển; đồng thời, xu thế hội nhập và cơ chế thị trường cũng bộc lộ những khiếm khuyết, đặt ra yêu cầu cấp thiết cần thay đổi. Cho nên, sự ra đời của NQTW9 lúc này là phù hợp, đúng lúc.

Thực tế cho thấy, sau 15 năm thực hiện NQTW5 mà rộng hơn là từ thời kỳ Đổi mới đến nay, kinh tế nước ta có đi lên nhưng văn hóa chưa tương xứng[nguyên văn lời của GS. Thêm: "...văn hóa thì đi xuống" - vanhoahoc.vn]Sự đi lên của kinh tế cũng có những bước thăng trầm, chưa vững chắc bởi thực lực của nước ta chưa nhiều, chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên, đầu tư nước ngoài, chứ chưa phải từ nội lực, từ yếu tố con người với đầy đủ trí tuệ, năng lực và những phẩm chất cần có. NQTW9 đánh giá: "So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng".

Cho nên, xét một cách tổng thể thì NQTW9 đã ra đời đúng lúc, tạo nên sự phấn khởi và hy vọng mới. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là Nghị quyết phải được triển khai thực hiện sao cho thật hiệu quả, làm chuyển biến toàn diện nền văn hóa nước nhà mới là điều đáng quan tâm.

PV: Đề cương văn hóa 1943, NQTW5 (khóa VIII) và NQTW9 (khóa XI) là những văn kiện chuyên sâu về văn hóa. Xin GS cho biết bước phát triển mới trong văn kiện lần này?

GS. TSKH Trần Ngọc Thêm: Theo tôi, ba văn kiện đó đánh dấu ba bước phát triển có tính chất chiến lược.

Năm 1943, trong bối cảnh đất nước ta đang bị ngoại bang xâm chiếm, đương nhiên văn hóa bị chi phối mạnh bởi ảnh hưởng văn hóa ngoại lai. Thời điểm đó, theo nhận định của Tổng bí thư Trường Chinh, văn hóa mang ba nhược điểm lớn là: Phản dân tộc, phản khoa học và phản đại chúng. Bởi vậy, Đề cương văn hóa Việt Nam nêu ra ba nguyên tắc vận động văn hóa cơ bản là dân tộc (chống nô dịch, thuộc địa), khoa học (chống mê tín, dị đoan, phản tiến bộ), đại chúng (thực hiện dân chủ, công bằng, chống xa rời quần chúng). Đề cương này là một văn kiện chính trị quan trọng của Đảng với nội dung ngắn gọn, xúc tích, tính khoa học sâu sắc và tầm nhìn chiến lược. Có thể ví Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 như một cương lĩnh Mác-xít về cách mạng văn hóa của dân tộc ta trong thời kỳ lịch sử lâu dài; nhiều nội dung cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự.

NQTW5 (khóa VIII) ra đời năm 1998 đánh dấu bước chuyển quan trọng từ mục tiêu “xây dựng nền văn hóa XHCN” được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IV năm 1976 sang mục tiêu “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong đó, yếu tố “tiên tiến” được đặt lên trước khẳng định quyết tâm hội nhập với văn hóa các nước trên thế giới. Đây là một xu hướng, mở ra cả thời cơ và thách thức. “Tiên tiến” nhưng không xa rời cốt cách, bản sắc dân tộc; hội nhập nhưng không hòa tan bởi văn hóa là “thẻ căn cước” của một quốc gia, là giá trị định vị dân tộc. Nếu như mục tiêu xây dựng nền văn hóa XHCN của 20 năm trước rất trừu tượng, chung chung, dễ dẫn đến hiểu sai, thực hiện sai thì mục tiêu “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” lại rất rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện và phù hợp với mặt bằng dân trí của đại bộ phận nhân dân. Bởi thế, nó được nhân dân đón nhận một cách tự nhiên, phấn khởi. Điều đó chứng tỏ văn kiện này rất có tầm nhìn, đúng hướng, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Thế nhưng, từ đó đến nay, việc triển khai thực hiện NQTW5 (khóa VIII) và kết quả đạt được chưa như mong đợi. Tuy Đảng đã xác định “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội” nhưng thực tế trong suy nghĩ, hành động, việc làm của các cấp đều quá coi trọng kinh tế. Hầu hết các chủ trương, giải pháp đưa ra đều tập trung cho phát triển kinh tế mà xem nhẹ văn hóa. Dường như toàn bộ “vấn đề văn hóa” được “khoán” cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì quản lý, tổ chức, hướng dẫn thực hiện. Như thế, văn hóa vô hình trung bị thu hẹp phạm vi và trở nên “hành chính hóa”, không còn là một phạm trù tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần; dẫn tới nhiều hạn chế, khuyết điểm như trong văn kiện NQTW9 đã nêu.

Ở NQTW9 lần này, Đảng ta đã kế thừa những giá trị của các văn kiện trước và khẳng định: Văn hóa phải gắn với con người. Điều đó được thể hiện ngay ở tiêu đề văn kiện là “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Những văn kiện trước có nói đến con người nhưng còn rất mờ nhạt, chung chung. Con người trong NQTW9 đã cụ thể hơn, rõ ràng hơn với đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cần có của con người thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Đây là điểm mới nổi bật của NQTW9. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết là “dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học” khiến chúng ta liên tưởng tới Đề cương văn hóa năm 1943 với nội dung cốt lõi là “dân tộc, khoa học, đại chúng”. Thực tế hiện nay chúng ta cũng đang đối mặt với nạn xâm lăng về văn hóa, với những yếu tố phản cảm, phản văn hóa, phi văn hóa do mở cửa hội nhập và mặt trái của nền kinh tế thị trường, bởi vậy mà phải coi trọng yêu cầu “dân tộc”. Cùng với đó là sự mai một nhiều giá trị tinh thần truyền thống và nhu cầu tiếp nhận các giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới, bởi vậy mà phải nhấn mạnh yếu tố “nhân văn”. Cuối cùng, tính “dân chủ” và “khoa học” cũng cần được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của thời đại. Cho nên, NQTW9 có thể nói là một bước phát triển quan trọng trong tư duy nhận thức của Đảng. Vấn đề vẫn là chúng ta sẽ thực hiện như thế nào mà thôi.

PV: Quan điểm thứ nhất trong NQTW9 xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Theo GS, đây có phải là quan điểm mới? Những khó khăn cần giải quyết khi “đặt ngang hàng”?

GS. TSKH Trần Ngọc Thêm: Đây không phải là quan điểm mới mà thực chất chỉ là khẳng định lại cho rõ ràng hơn. Từ năm 1993, trong NQTW4 (khóa VII) “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”, Đảng ta đã xác định vấn đề này rồi. NQTW5 (khóa VIII) cũng đã nêu rất rõ nội dung trên tại quan điểm thứ nhất. Điểm khác ở đây chỉ là NQTW9 đã thay cụm từ “thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội” bằng cụm từ “phát triển bền vững đất nước”. Sự thay đổi này có hai ý: Một là khẳng định mạnh hơn vai trò của văn hóa: Văn hóa không chỉ là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển mà là mục tiêu, động lực trực tiếp cho sự phát triển. Hai là sự phát triển này phải mang tính bền vững và không chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế-xã hội mà là phát triển cả đất nước. Cụm từ này phù hợp với tình hình thực tế nước ta đang có nhiều vấn đề cần quan tâm không chỉ cho trước mắt mà cả cho lâu dài.

Với vế thứ hai của quan điểm thứ nhất - “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” - tôi cho rằng đây cũng không phải là quan điểm mới. Ngay Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 cũng đã khẳng định: “văn hóa là một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải quan tâm”. Cái khó ở đây là vấn đề con người, vấn đề thực hiện. Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp, nguyên nhân thất bại của kinh tế bắt nguồn từ con người, từ văn hóa, nhưng ta lại đi tìm biện pháp khắc phục ở kinh tế. Vẫn những con người ấy, cơ chế ấy, cung cách quản lý ấy… thì biện pháp, phương tiện… dù có tốt đến mấy cũng khó lòng khắc phục.

Mặt khác, việc “đặt ngang hàng” không nên chỉ hiểu là vị trí ngang nhau, coi trọng ngang nhau một cách đơn thuần mà điều không kém phần quan trọng là phải hiểu được mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa văn hóa và kinh tế. Không có kinh tế thì không phát triển được văn hóa; và ngược lại, có một nền văn hóa phát triển toàn diện thì mới có nền kinh tế phát triển bền vững. Hơn thế nữa, văn hóa còn chi phối kinh tế: Một nền văn hóa tiểu nông tầm nhìn hạn hẹp với lối sống tùy tiện biến báo tất sẽ đẻ ra một nền kinh tế chộp giật, ăn xổi ở thì, thậm chí vi phạm pháp luật, đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục.

Bài 2: Coi trọng xây dựng yếu tố con người

20140701-QDND-2

PV QĐND: Ở bài trước, ông đã nói rằng văn hóa chi phối kinh tế, văn hóa thế nào thì kinh tế sẽ tương ứng như thế ấy. Mà trong văn hóa thì yếu tố con người là trung tâm. Vậy, con người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH cần có những phẩm chất gì, thưa giáo sư?

GS, TSKH Trần Ngọc Thêm: Con người Việt Nam từ xưa đã có nhiều phẩm chất đáng quý như lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, tính cộng đồng, tính ưa hài hòa, linh hoạt, hiếu khách, yêu chuộng hòa bình… Những phẩm chất đó đã giúp chúng ta vượt qua mọi phong ba bão táp, chiến thắng bao kẻ thù xâm lược để tồn tại và phát triển. Thế nhưng, trong giai đoạn hiện nay, không ít phẩm chất tốt đẹp trước kia đã bộc lộ mặt trái của mình: Tính cộng đồng tạo nên thói cào bằng không muốn người khác hơn mình, nói xấu sau lưng, ném đá giấu tay; tính ưa hài hòa khiến người ta ngại thay đổi, kìm hãm phát triển; tính linh hoạt tạo nên thói gian dối, bất tuân pháp luật… những thói xấu đó gây cản trở nghiêm trọng tiến trình hội nhập và sự phát triển xã hội, đòi hỏi phải thay đổi, tiếp nhận những phẩm chất mới phù hợp với công cuộc CNH, HĐH đất nước. Con người ngày nay phải là con người có bản lĩnh để dám mạnh dạn đổi mới, dám làm, dám chịu trách nhiệm về những quyết định của cá nhân mình, chứ không a dua theo phong trào, trốn tránh trách nhiệm khi gặp thất bại; có trí tuệ hiểu biết và tư duy khoa học để khắc phục tư tưởng tiểu nông hẹp hòi, thiếu tầm nhìn xa; có tác phong công nghiệp, sống và làm việc theo pháp luật để xây dựng xã hội tiến bộ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước.

PV: Giáo sư có thể cho biết kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng yếu tố con người?

GS, TSKH Trần Ngọc Thêm: Con người ở các nước phương Tây đã có ý thức tổ chức và truyền thống pháp luật từ rất sớm, tác phong công nghiệp cũng đã hình thành từ cuối thế kỷ 18. Hệ giá trị công nghiệp, đô thị đã có sẵn nên rất thuận lợi. Có nảy sinh vấn đề chăng chỉ là ở các nước phương Đông và châu Phi. Ngay trong phương Đông, vấn đề con người cũng không đồng nhất.

Văn hóa khu vực Đông Bắc Á mang tính trung gian chuyển tiếp giữa kiểu văn hóa nông nghiệp lúa nước trọng tĩnh Đông Nam Á với kiểu văn hóa trọng động phương Tây; người Đông Bắc Á đều có chung đặc trưng là coi trọng pháp luật, tôn ti trật tự, phân biệt trên dưới rõ ràng… Nhờ có sẵn cái nền tảng con người mà nước nào sớm biết tiếp thu những phẩm chất của văn minh đô thị, công nghiệp phương Tây thì sẽ phát triển sớm. Nhật Bản quyết tâm thay đổi hệ giá trị theo hướng “thoát Á nhập Âu” từ thời Minh Trị nên phát triển sớm nhất. Theo sau là Hàn Quốc và hiện nay cả Trung Quốc lục địa nhờ có yếu tố con người nên đã có cách xây dựng kinh tế rất khác ta; họ làm việc gì cũng có sự chuẩn bị chu đáo, tính toán chặt chẽ, chính xác nên đã thành công.

Các nước Đông Nam Á đều có chung những “căn bệnh” của kiểu văn hóa nông nghiệp lúa nước với tư tưởng tiểu nông. Xin-ga-po biết phát huy lợi thế nước nhỏ và có 75% cư dân là người gốc Hoa nên đã bứt ra được mà phát triển nhanh và sớm nhất. Các nước Đông Nam Á khác như Thái Lan, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a cũng đều quyết tâm tập trung xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người nên sau năm 1975 cũng phát triển khá nhanh.

Tất cả các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á phát triển nhanh hơn ta đều có điểm chung là họ rất quan tâm tới yếu tố con người, xây dựng văn hóa, hoàn thiện pháp luật làm cơ sở cho phát triển kinh tế.

PV: Vấn đề then chốt trong xây dựng yếu tố con người là gì, thưa giáo sư?

GS, TSKH Trần Ngọc Thêm: Trước hết, cần có một quan niệm đầy đủ và nhất quán về khái niệm văn hóa, một cấu trúc hợp lý về vị trí và các thành tố của văn hóa, một hệ giá trị thích hợp để phát huy được ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm; chọn lọc tiếp nhận đúng những phẩm chất của một nền văn hóa công nghiệp, đô thị mà người Việt Nam còn thiếu. Từ đó, xây dựng được một khung lý thuyết khoa học, không mâu thuẫn và mang tính hệ thống cao.

Trong thời đại ngày nay, việc mở cửa hội nhập chính là cơ hội để chúng ta tiếp nhận những tinh hoa văn hóa, những phẩm chất hiện đại để bổ khuyết cho những gì mà con người Việt Nam chưa có. Sự tiếp nhận ấy phải hết sức chân thật và cầu thị. Xây dựng văn hóa phải bắt đầu từ xây dựng con người. Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng con người là yếu tố trung tâm; vấn đề then chốt trong xây dựng con người là xây dựng hệ giá trị - một hệ giá trị cho phép vừa giữ gìn bản sắc dân tộc vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong đó con người cần có ý thức tổ chức kỷ luật, tôn trọng thứ bậc, người trên gương mẫu, kẻ dưới phục tùng, sai biết nhận lỗi, kém biết từ chức, trên dưới đồng lòng… Thực tế cho thấy, phương Tây tuy đề cao cá nhân, nhưng đó là bản lĩnh cá nhân chứ không phải là cá nhân ích kỷ; tuy đề cao bản lĩnh cá nhân nhưng con người phương Tây cũng rất có tinh thần cộng đồng xã hội. Ai lo phận nấy, không xoi mói vào việc riêng của nhau, nhưng tất cả đều quan tâm tới lợi ích chung của đất nước. Họ luôn có tinh thần vì xã hội, vì mọi người. Khi ra đường họ luôn tự giác chấp hành nghiêm luật giao thông để không chỉ bảo đảm an toàn cho cá nhân mình mà còn bảo đảm an toàn cho người khác; khi thấy rác ở nơi công cộng, họ tự giác nhặt bỏ vào nơi quy định để giữ gìn vệ sinh chung… Đó chính là cốt lõi của văn hóa văn minh, nền tảng bền vững của phát triển.

Những phẩm chất đó, con người ở nước ta còn thiếu, tính cộng đồng làng xã kéo theo tư tưởng cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi; truyền thống dân chủ làng xã tạo nên bệnh “phép vua thua lệ làng”; truyền thống trọng tình tạo nên bệnh e dè nể nang; tính linh hoạt tạo nên thói đại khái qua loa, làm gì cũng chỉ cốt cho qua chuyện. Bởi vậy, chúng ta cần phải đổi mới mạnh mẽ bắt đầu từ việc khắc phục những thói hư tật xấu, tập trung xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện đại, văn minh.

Đồng thời, để đưa được hệ giá trị đó vào cuộc sống đòi hỏi phải có một tổ chức đủ tầm chủ trì thực hiện mới mang lại kết quả chứ không thể khoán trắng cho một bộ, ban, ngành chức năng nào. Lâu nay, xây dựng kinh tế có những tổ chức chủ trì, những hình thức quản lý thế nào thì xây dựng văn hóa, con người cũng phải có những tổ chức chủ trì, những hình thức quản lý như thế ấy mới có thể hy vọng đưa được hệ giá trị mới vào cuộc sống và có được một xã hội phát triển bền vững.

PV: Theo giáo sư, để phát huy khả năng sáng tạo của con người trong xây dựng nền văn hóa chúng ta phải làm gì?

GS, TSKH Trần Ngọc Thêm: Sáng tạo là một trong những phẩm chất vốn có của người Việt Nam. Phẩm chất ấy đã góp phần làm nên những thành công trong lịch sử. Những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sự sáng tạo trong chủ trương, đường lối lãnh đạo cách mạng, trong nghệ thuật tác chiến chiến lược, phát huy sức mạnh toàn dân đã làm nên chiến thắng. Trong thời bình, chúng ta cũng sáng tạo trên nhiều phương diện để ổn định cuộc sống, phát triển đất nước. Tuy nhiên, nhìn tổng thể thì tính sáng tạo của ta chủ yếu là giới hạn ở sự khôn ngoan biến báo, ít có sáng tạo lớn mang tính phát minh. Nguyên nhân ở truyền thống văn hóa nông nghiệp làng xã coi trọng ổn định hơn là phát triển, đề cao tính cộng đồng cào bằng hơn là khuyến khích phát huy bản lĩnh cá nhân; kết quả là con người hướng tới sự biến báo để duy trì ổn định trạng thái hiện có hơn là sáng tạo để tạo ra sự phát triển đột biến. Mặt khác, cũng từ cái gốc văn hóa nông nghiệp làng xã ấy mà truyền thống giáo dục-đào tạo ở nước ta ưa thấy học trò thuộc bài, làm văn theo mẫu, giải toán theo các dạng đề hơn là khuyến khích học trò thông minh, sáng tạo; thói quen quản lý xã hội cũng thường thích người dưới dễ khiến, dễ bảo. Từ xưa đến nay, người Việt ta ở khắp nơi, trong gia đình thì muốn nhìn thấy “con ngoan, biết vâng lời”; trong nhà trường thì muốn nhìn thấy “trò giỏi, thuộc bài”; ngoài xã hội thì thích người dưới tin tưởng “tuyệt đối” vào người trên. Cha mẹ, nhà trường, xã hội thường có khuynh hướng “bao cấp”, suy nghĩ thay, làm thay.  Không ít người sắc sảo thông minh nhưng không phát huy được.

Cho nên, muốn phát huy khả năng sáng tạo của con người Việt Nam trong xây dựng nền văn hóa mới thì phải thay đổi một cách cơ bản, phải xác định một hệ thống giải pháp hiệu quả, căn cơ; phải kiên trì giải quyết đồng bộ nhiều lĩnh vực liên quan. Trong đó, cần khắc phục triệt để những bất cập từ khâu giáo dục trong gia đình, nhà trường, cho đến đổi mới tư duy trong công tác quản lý xã hội… hướng vào phát huy vai trò, bản lĩnh cá nhân. Đặc biệt, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng với những tập thể, cá nhân dám nghĩ, dám làm, chủ động, sáng tạo để giành kết quả cao trong học tập, lao động, nghiên cứu khoa học và chiến đấu…

Bài 3: Khắc phục những lực cản để xây dựng sức mạnh mềm 

20140702-QDND-3

 PV QĐND: Gần đây chúng ta hay nhắc đến khái niệm sức mạnh mềm. Vậy sức mạnh mềm của các quốc gia gồm những yếu tố nào? Con người đóng vai trò gì trong đó, thưa giáo sư?

GS, TSKH Trần Ngọc Thêm: Sức mạnh mềm có thể hiểu nôm na là sức hấp dẫn, lôi cuốn, thu phục, khả năng ảnh hưởng của một đối tượng hoặc quốc gia này đối với một đối tượng hoặc quốc gia khác. Phương tiện cơ bản nhất của sức mạnh mềm là văn hóa, nó thể hiện ở sức hấp dẫn của các giá trị, của vẻ đẹp tinh thần, của tư tưởng, thông qua các hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau. Văn hóa là sức mạnh mềm; trong khi quân sự, kinh tế… là “sức mạnh cứng”. Ngoại giao là sức mạnh mềm nhưng thường có sức mạnh cứng hỗ trợ phía sau.

Như vậy, để làm nên “sức mạnh mềm” thì yếu tố văn hóa giữ vai trò quan trọng mà trong văn hóa thì yếu tố con người là trung tâm. Tựu trung lại vẫn là việc xây dựng con người - yếu tố gốc để phát triển văn hóa, tăng cường sức mạnh mềm của một quốc gia.

PV: Những lực cản cần khắc phục trong việc xây dựng sức mạnh mềm ở nước ta?

GS, TSKH Trần Ngọc Thêm: Như tôi đã nói ở trên, muốn xây dựng nền văn hóa phát triển trước hết phải xây dựng con người. Thế nhưng ở Việt Nam, con người ấy phải loại bỏ những đặc tính không phù hợp như: Thói tùy tiện, đại khái; ngại đổi mới, sợ trách nhiệm; thói đua đòi, bệnh phong trào…

Trong quan hệ ngang bằng thì lực cản cần khắc phục là bệnh phong trào. Trước kia, trong chiến tranh giữ nước, tính cộng đồng tạo thành các phong trào lớn và làm nên sức mạnh của dân tộc. Nhưng ngày nay, bệnh phong trào mang lại hiệu quả tiêu cực nhiều hơn. Phong trào xây dựng khu phố văn hóa, gia đình văn hóa ngày càng bộc lộ bệnh hình thức, không phù hợp với thực tiễn. Hình ảnh đống rác dưới chân tấm biển khu phố văn hóa, ấp văn hóa ở nhiều nơi đã trở thành phản cảm. Phong trào “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” cũng chỉ phát huy được tác dụng nhất thời. Do thói đua đòi, bệnh phong trào, mà khi tỉnh này thành lập một trường đại học thì tỉnh bên cạnh cũng cố gắng thành lập cho được một vài trường đại học, kết quả là cơ sở vật chất yếu, thầy thiếu, trò thiếu; để duy trì trường lớp, điểm chuẩn phải hạ thấp một cách thảm hại. Họ không nghĩ tới việc phối hợp với nhau, tỉnh này đã có trường đại học rồi thì tỉnh bên cạnh nên đầu tư mở trường dạy nghề để thu hút người học của cả hai tỉnh, như vậy sẽ vừa thuận lợi, ít tốn kém, lại có thể nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng, thu được hiệu quả cao. Cho nên, phải thay tính cộng đồng làng xã bằng tính cộng đồng xã hội, xây dựng ý thức trách nhiệm và bản lĩnh cá nhân; không thể tiếp tục mãi việc học tập theo phong trào, nghiên cứu khoa học theo phong trào, làm mía đường theo phong trào, nuôi tôm theo phong trào, lập trường đại học theo phong trào, mở sân bay, bến cảng theo phong trào, sống có văn hóa cũng theo phong trào…

Trong quan hệ trên dưới, theo chiều từ trên xuống dưới thì lực cản cần khắc phục là bệnh quan liêu, áp đặt, chỉ muốn người dưới dễ bảo, nghe theo ý mình; căn bệnh này tạo nên ở quần chúng thói quen ỷ lại, giết chết tính sáng tạo. Theo chiều từ dưới lên trên thì lực cản cần khắc phục là bệnh dân chủ làng xã. Trước kia, trong chiến tranh, dân chủ làng xã là cơ sở cho tinh thần tự lập, tự cường, tự chủ, tạo nên sức mạnh của dân tộc. Nhưng trong thời bình, kiểu dân chủ đó giết chết ý thức tổ chức kỷ luật, tạo nên tình trạng vô chính phủ, “phép vua thua lệ làng”, “trên bảo dưới không nghe”. Bởi thế, theo chiều từ dưới lên trên cần đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, trên ra trên, dưới ra dưới. Theo chiều từ trên xuống dưới cần phát huy tinh thần dân chủ xã hội, bản lĩnh cá nhân để giải phóng sức sáng tạo của quần chúng. Cái dân chủ này phải đặt trong khung cảnh văn hóa để có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo, không gây ra những rối loạn xã hội.

Trong lối sống, lối làm việc thì lực cản cần khắc phục là bệnh tùy tiện do truyền thống linh hoạt sinh ra. Chính sự linh hoạt dẫn đến thói du di, tùy tiện, vô nguyên tắc cả trong suy nghĩ lẫn việc làm. Trong khi đó, thời kỳ CNH, HĐH với đặc trưng công nghiệp hiện đại và đô thị hóa, coi trọng khoa học công nghệ thì sự linh hoạt, tùy tiện hoàn toàn không phù hợp. Khoa học phải chính xác, chặt chẽ, mà linh hoạt sinh ra bệnh tùy tiện; tùy tiện sinh ra bệnh đối phó, “gió chiều nào che chiều ấy”. Con người hiện đại phải có ý thức thượng tôn pháp luật, phải có tri thức, dám tự chịu trách nhiệm với bản thân và xã hội; dám đổi mới, dám sáng tạo. Cho nên, để phát triển đất nước cần phát triển văn hóa; và để phát triển văn hóa trước hết phải xây dựng những phẩm chất mới của con người hiện đại đáp ứng công cuộc CNH, HĐH đất nước.

Chỉ có như thế mới có thể phát huy được sức mạnh nội sinh, tận dụng được những cơ hội do hội nhập mang lại, nâng cao được khả năng cạnh tranh và làm gia tăng được sức hấp dẫn của dân tộc, quốc gia để văn hóa Việt Nam ngày càng lan tỏa, sức mạnh Việt Nam ngày càng được củng cố vững chắc.

GS, TSKH Trần Ngọc Thêm. Ảnh : Documentary.vn

PV: Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, danh xưng “Bộ đội Cụ Hồ” mang giá trị văn hóa riêng có của dân tộc và của Quân đội nhân dân Việt Nam. Để giữ gìn nét đẹp văn hóa đó, giáo sư có tâm sự gì với các bạn trẻ trong quân đội?

GS, TSKH Trần Ngọc Thêm: Bộ đội Cụ Hồ đích thực là một giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam và của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, bộ đội ta là bộ đội của dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng cao đẹp của tinh thần tận tụy, gần dân, vì nhân dân phục vụ. Cho nên, hơn ai hết, Bộ đội Cụ Hồ phải tích cực “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để luôn trong sạch, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân, xứng đáng với danh xưng văn hóa ấy.

Trên thực tế, các đơn vị quân đội đã thể hiện rõ truyền thống văn hóa trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nhất là chức năng “đội quân công tác”. Chức năng đó được thể hiện ở việc giúp dân, cứu hộ, cứu nạn, phòng chống thiên tai, thảm họa… Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân. Tuy nhiên, ngoài những công việc đó, lực lượng vũ trang nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng phải là lực lượng tiên phong chống lại các thói hư tật xấu, chống tham nhũng, lãng phí và những “căn bệnh” làm suy yếu giá trị của văn hóa Việt Nam. Muốn vậy, các bạn trẻ trong quân đội cần tích cực rèn luyện bản lĩnh, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực chuyên môn và bồi đắp giá trị văn hóa, giao tiếp, ứng xử đúng mực với đồng chí, đồng đội và với nhân dân. Ngoài ra, khi thực hiện những nhiệm vụ khác, đặc biệt là tham gia phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, cần chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; năng động, sáng tạo nhưng phải giữ vững bản lĩnh, không để những tác động tiêu cực làm ảnh hưởng tới nét đẹp văn hóa của Bộ đội Cụ Hồ. Đó chính là cách góp phần thực hiện thành công NQTW9 “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.