1. Giá trị và giá trị văn hoá
Trong các ngôn ngữ phương Tây, thuật ngữ “giátrị” (A. value, F. valeur; tương đương với ценностьcủa tiếng Nga, 价值 / 價值của tiếng Hoa), bắt nguồn từ valere của tiếng La-tinh có nghĩa là ‘khỏe mạnh, tốt, đáng giá’, ban đầu được dùng để chỉ việc một thứ gì đó đáng giá, trước hết là theo nghĩa giá trị trao đổi của kinh tế học mà nhà kinh tế học chính trị Adam Smith đã nói đến trong tác phẩm nổi tiếng của mình nhan đề:Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) xuất bản năm 1776. Theo Đại bách khoa toàn thư Xô-viết (30 tập), giá trị (ценность) là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu triết học và xã hội học để chỉ ý nghĩa con người, xã hội và văn hoá của những hiện tượng thực tế nhất định [Дробницкий О.Г. 1978].
Là một thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi, song ở khái niệm “giá trị” còn tồn đọng rất nhiều vấn đề lý luận chưa được giải quyết thấu đáo.
1.1. Giá trị và văn hoá
Các tài liệu nghiên cứu, các từ điển bách khoa lâu nay thường phân biệt giá trị đạo đức (ethical values), giá trị kinh tế (economic value), giá trị văn hoá (cultural value), giá trị xã hội (social value), giá trịpháp lý (law’s value), giá trị ký hiệu học (semiotic value), giá trị toán học (mathematical value), v.v.
Đây là một cách nhìn rất truyền thống, nó ra đời có lẽ chỉ sau thời Adam Smith (tk. 18) mà thôi. Chính vì ra đời trước khi có khoa học văn hoá học, nên văn hoá chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp (= văn hoá tinh hoa), và do vậy mà giá trị văn hoá mới được đặt ngang hàng bên cạnh các loại giá trị khác.
Quan niệm trình bày trong “Bách khoa toàn thư văn hoá học tk. XX” của Nga xuất bản năm 1998 coi “giá trị là những thành tố quan trọng nhất của văn hoá con người bên cạnh các chuẩn mực và các lý tưởng”[1] [Губман Б.Л. 1998] thì lại thu hẹp nội hàm của khái niệm “giá trị”, văn hoá không phải là hệ thống giá trị, mà là hệ thống của giá trị và nhiều thứ khác.
Như vậy, nếu hiểu “văn hoá” và “giá trị” theo nghĩa rộng, chấp nhận quan niệm coi văn hoá là hệ thốnggiá trị do con người sáng tạo ra thì khái niệm “văn hoá” trong cụm từ “giá trị văn hoá” phải được hiểu là ‘do con người sáng tạo ra’. Giá trị văn hoá đối lập với giá trị tự nhiên và bao gồm tất cả các loại giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị pháp lý, giá trị ký hiệu học, giá trị toán học, v.v., vì mọi giá trị và hệ giá trị do con người sáng tạo ra đều thuộc văn hoá cả rồi.
1.2. Giá trị văn hoá và tính tinh thần, đạo đức
Nhiều người đồng nhất giá trị (văn hoá) với giá trị tinh thần.
Điều này không đúng. Bên cạnh giá trị tinh thần còn có giá trị vật chất. Nếu hiểu khái niệm “tinh thần” theo nghĩa hẹp thì người ta còn có thể phân biệt ba loại giá trị: giá trị vật chất, giá trị xã hội - chính trị và giá trị tinh thần [Ценности БЭC 1999-2000]. Nhà triết học Đức Max Scheler (1874-1928) trong tác phẩm kinh điển “Chủ nghĩa hình thức trong đạo đức học và đạo đức học phi chính thống về các giá trị”[2] xuất bản lần đầu năm 1913 phân biệt tới bốn loại giá trị: giá trị tinh thần (như chân, thiện, mỹ); giá trị thiêng (niềm tin tôn giáo); giá trị cảm xúc hay khoái lạc; và giá trị đời sống (như sức khỏe) [Axiology. - New World Encyclopedia], trong đó thực ra giá trị thiêng chính là một loại giá trị tinh thần, giá trị đời sống chính là giá trị vật chất, chỉ có giá trị cảm giác là phi vật chất nhưng chưa hẳn là tinh thần.
Tuy nhiên, đúng là trong tất cả các loại ấy thì giá trị tinh thần là loại giá trị quan trọng nhất, chi phối các loại giá trị khác. Phẩm chất tinh thần là phẩm chất quan trọng nhất, là hạt nhân cốt lõi của khái niệm “giá trị”. Vì vậy khoa giá trị học (Axiology, từ tiếng Hy-Lạp áξίā, axiā là ‘giá trị, đáng giá’ và -λογία, -logia) chỉ nghiên cứu các giá trị tinh thần thuộc về đạo đức học và mỹ học [Axiology].
Thực ra, việc coi loại giá trị nào quan trọng hơn loại giá trị nào phụ thuộc vào tiêu chí đánh giá.
Max Scheler khẳng định rằng trong bốn loại giá trị thì giá trị cảm xúc mới là loại nằm ở vị trí cao nhất trong bậc thang cấp hệ giá trị: Giá trị cảm xúc > Giá trị đời sống >Giá trị tinh thần >Giá trị thiêng[Axiology. - New World Encyclopedia]. Quan niệm của Scheler là do hoàn cảnh lịch sử chi phối. Trước Max Scheler, Immanuel Kant (1724-1804) đã đưa ra thuyết giá trịđạo đứcđể thay thế cho các giá trị thần học đã thống trị suốt thời trung cổ. Đến lượt mình, Max Scheler thay thế giá trịđạo đức của I. Kant bằng giá trịcảm xúc (feeling values). Theo Max Scheler, giá trị là đối tượng chủ tâm của cảm xúc cũng giống như màu sắc là đối tượng chủ tâm của thị giác: con người có khả năng nhìn thấy màu vàng cũng giống như con người có khả năng cảm nhận được lòng tốt. Giá trị được cụ thể hóa qua các đối tượng vật chất nhưng tự thân nó không phải là đối tượng vật chất. Trong khi hàng hóa kiểu như bức tranh là đối tượng thực nghiệm thì giá trị mang bản chất tiên nghiệm (a priori), tồn tại không lệ thuộc vào hàng hóa mà qua đó nó được cụ thể hóa [Axiology. - New World Encyclopedia].
Vị trí mà Max Scheler dành cho giá trị cảm xúc chỉ đúng khi ta đánh giá theo xúc cảm vô thức - sinh học: đúng là trong vô thức, ta thường cho rằng không khoái cảm nào lớn hơn, mạnh hơn được khoái cảm do hoạt động tình dục mang lại. Trong khi thực ra khoái cảm tình dục chỉ mạnh trong chốc lát, sức khỏe như giá trị vật chất mới là cái mạnh lâu dài: không ăn không uống thì chỉ có chết, lấy đâu sức khỏe mà làm tình? Do vậy, từ góc độ quan điểm duy vật, thì giá trị vật chất mới là quan trọng. Song quan niệm như vậy là mới dừng lại ở một thứ duy vật thô thiển. Con người khác động vật duy vật chất ở chỗ có văn hoá và biết phát huy các giá trị tinh thần ẩn tàng trong đó. Ai cũng biết khả năng nhịn ăn nhịn uống siêu việt của các nhà yoga Ấn Độ. Đối với con người, các giá trị vật chất luôn chứa đựng giá trị tinh thần như một bộ phận quan trọng không thể thiếu, nhưng không đồng nhất với nó.
Trong các tài liệu không chỉ tồn tại quan niệm hẹp về “giá trị văn hoá” mà còn phổ biến quan niệm đồng nhất “giá trị văn hoá” với “giá trịđạo đức”, coi “giá trị văn hoá” thuộc lĩnh vực đạo đức. Từ điển Wikipedia tiếng Anh định nghĩa “giá trị văn hoá là giá trịđạo đức tương đối” [Value (personal and cultural)]. Sự đồng nhất này lại càng sai, vì văn hoá rộng hơn đạo đức, đạo đức chỉ là một thành tố của văn hoá, của hệ giá trị. Hệ giá trị văn hoá bao gồm cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần bao gồm cả giá trị ứng xử và các giá trị tinh thần khác. Đạo đức chỉ liên quan đến giá trị văn hoá ứng xử.
1.3. Giá trị văn hoá và chuẩn mực
Nhiều người đồng nhất, hoặc gần như đồng nhất, giá trị với chuẩn mực. Chẳng hạn, Cyde Kluckhohn(1951) cho rằng “Giá trị là quan niệm về điều mong muốn đặc trưng hiện hay ẩn cho một cá nhân hay một nhóm và ảnh hưởng tới việc chọn các phương thức, phương tiện hoặc mục tiêu của hành động” [Endruweit G. và Trommsdorff G. 2002: 156]. Trên cơ sở định nghĩa của Kluckhohn, F.Chzel định nghĩa lạigiá trị là “những tiêu chuẩn về cái có thể ao ước được, chúng xác định các mục đích chung của hành động”, còn Đoàn Văn Chúc thì định nghĩa “giá trị là cái khả ao ước trong đời sống của một cộng đồng xã hội, một nhóm hay một cá nhân” [Đoàn Văn Chúc 2008: 117][3]. Cũng theo hướng này, Phạm Minh Hạc và các cộng sự định nghĩa “giá trị là cái quy định mục đích của hoạt động” [Phạm Minh Hạc (cb) 2007: 106].
Giá trịlà một khái niệm rộng, trong đó chỉ có các giá trị định hướng mới gần với chuẩn mực. Còn giá trị văn hoá và chuẩn mực là hai khái niệm giao nhau, chúng phân biệt với nhau theo tiêu chí thời gian. Giá trị văn hoá bao gồm các giá trị do con người sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại (có tính lịch sử). Chuẩn mực (thường là về đạo đức: core values, code of ethics) là những giá trị mà con người hướng tới trong hiện tại và tương lai.
13 phẩm chất mà Tổng thống Benjamin Franklin đề ra cho mình năm 1776 và cho rằng mỗi người Mỹ cần phải theo (chừng mực, nói đủ, ngăn nắp, kiên quyết, tiết kiệm, tính công nghiệp, chân thành, công lý, trung dung, yên bình, thuần khiết, khiêm tốn) chứa đựng cả những giá trị mà người Mỹ đã và đang có (nhưkiên quyết, tính công nghiệp, công lý, v.v.) và cả những giá trị trái ngược với tính cách Mỹ (như chừng mực, trung dung, v.v.). Đó là chuẩn mực chứ không phải là giá trị văn hoá Mỹ.
“Năm quan điểm chung về giá trị văn hoá đạo đức của Singapor” mà mọi người dân cần noi theo: (1)Quốc gia trên hết, xã hội đầu tiên; (2) Gia đình là gốc, xã hội là thân; (3) Quan tâm giống nhau, đồng cam cộng khổ; (4) Tìm cái đồng, gạt cái bất đồng, hiệp thương cùng hiểu biết; (5) Chủng tộc hài hòa, tôn giáo khoan dung [Singapore 1997: 157] cũng là chuẩn mực đạo đức mà người Singapre hướng tới chứ không phải là giá trị văn hoá.
Chỉ khi nào trong quá trình hướng tới ấy, chuẩn mực đạo đức đi vào đời sống thì nó mới dần dần trở thành giá trị văn hoá (nhưng rất có thể khi đó lại xã hội lại đã đề ra một chuẩn đạo đức mới!).
1.4. Giá trị văn hoá và tính chủ quan, tương đối
Giá trị văn hoá có tính chủ quan và tính tương đối.
Từ điển Wikipedia tiếng Anh coi “giá trị văn hoá là giá trịđạo đức tương đối” và cho rằng giá trị mangtính chủ quan, chúng khác biệt giữa các dân tộc và các nền văn hoá và trên nhiều phương diện, chúng phụ thuộc vào niềm tin và các hệ thống tín ngưỡng tôn giáo [Value (personal and cultural)].
Đại từ điển Bách khoa của Nga định nghĩa: “Giá trị (ценность) là ý nghĩa (значимость) tích cực hoặc tiêu cực của các đối tượng thuộc thế giới bao quanh con người, của nhóm xã hội, của xã hội nói chung, được xác định không phải do các tính chất tự thân của chúng, mà là do chúng được lôi kéo vào lĩnh vực hoạt động đời sống, các mối quan tâm, các nhu cầu, và các quan hệ xã hội của con người”. Sự lôi kéo này tạo ra tính chủ quan. “Giá trị còn là những tiêu chí và phương pháp đánh giá ý nghĩa ấy, thể hiện qua các nguyên tắc và chuẩn mực, lý tưởng, phương hướng, mục tiêu đạo đức” [Ценности БЭC 1999-2000]. Những tiêu chí và phương pháp đánh giá này tạo ra tính tương đối.
Giá trị bao giờ cũng là kết quả của sự so sánh và đánh giá.
Phạm trù “giá trị” hình thành trong nhận thức của con người bằng con đường so sánhcác hiện tượng khác nhau. So sánh từ góc nhìn của con người và theo tiêu chí do con người đặt ra tạo nên tính chủ quancủa giá trị.
Trong quá trình tồn tại, tìm hiểu và chiêm nghiệm thế giới, con người không chỉ so sánh mà còn đánh giá để đi đến quyết định rằng đối với mình, cái gì là quan trọng trong cuộc đời, cái gì không. Kết quả là mọi thứ của thế giới xung quanh đều được con người nhìn qua lăng kính độ quan trọng và độ hữu ích của chúng đối với cuộc sống của mình; từ đó mỗi hiện tượng sự vật sẽ nhận được một giá trị do con người gán cho. Sự đánh giá trên cơ sở so sánh như vậy tất mang lại cho giá trị tính tương đối.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt chủ quan và tương đối, ở một mức độ nhất định, giá trị văn hoá cũng có tính khách quan của nó. Trong học thuyết ký hiệu học của nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure, quan hệ nối kết theo chiều đứng giữa cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified) tạo nên ký hiệu, còn quan hệ so sánh theo chiều ngang giữa các ký hiệu với nhau tạo nên giá trị (valeur, x. hình 1) [Saussure, F. de 1973].
Hình 1: Ký hiệu và giá trị theo Ferdinand de Saussure
Giá trị thu được trong quan hệ so sánh tự thân giữa các khách thể với nhau có tính khách quan, còn giá trị thu được trong quan hệ so sánh giữa các khách thể từ góc nhìn của chủ thể thì mang tính chủ quan. Để phân biệt, chúng tôi đề xuất thêm thuật ngữ “trị giá”: Trị giá là giá trị có tính khách quan, còn giá trị là trị giá mang tính chủ quan.
2. Phương pháp nghiên cứu hệ giá trị văn hoá
2.1. Về phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Trong nghiên cứu giá trị, phương pháp được dùng phổ biến hiện nay là phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi, với những câu hỏi kiểu như:
Những yếu tố nào dưới đây có thể xem là giá trị văn hóa của Việt Nam:
¨ Anh hùng ¨ Cần cù ¨ Rộng lượng
¨ Sáng tạo ¨ Thương người ¨ Trung thực…
Căn cứ vào tỷ lệ phần trăm số người lựa chọn, người ta sẽ công bố rằng các phẩm chất a-b-c là giá trịvăn hoá của Việt Nam. Ưu điểm của phương pháp này là nó hỗ trợ cho các kết luận bằng những con số đầy ấn tượng cùng những biểu đồ được xử lý một cách chuyên nghiệp bằng phần mềm thống kê SPSS dành cho các ngành khoa học xã hội (Statistical Package for Social Sciences).
Song thực ra, phương pháp này áp dụng cho việc nghiên cứu giá trị văn hoá có không ít hạn chế:
Thứ nhất, với cách làm này, đây không phải là điều tra về giá trị, mà là điều tra nhận thức về giá trị. Như vậy là “giá trị” đã được đánh tráo bằng “nhận thức về giá trị”. Giá trị thực tồn tại trong vô thức, thể hiện qua tình cảm, hành động, chứ không phải qua lời nói.
Thứ hai, phương pháp này hình thành ở phương Tây áp dụng vào Việt Nam không hoàn toàn thích hợp do đặc tính cố hữu của người Việt trong giao tiếp là trọng thể diện và khéo léo, hay biến báo, không nói thật. Với câu hỏi “Những yếu tố nào dưới đây có thể xem là giá trị văn hóa của Việt Nam” nêu trên, sẽ không ít người chọn phẩm chất “trung thực” trong khi người ấy thường xuyên nói dối, nói khéo trong cuộc sống thực tế. Với câu hỏi “Mục đích của việc lo cho con cái học hành” do nhóm Hồ Sĩ Quý tiến hành năm 2007 dưới đây, đa số (70.4%) chọn câu trả lời khuôn sáo “Trở thành người có ích cho xã hội” [Hồ Sĩ Quý 2007: 17], trong khi thực tế chắc chắn có rất ít người thực sự coi đó là mục tiêu số một của mình.
Mục đích của việc lo cho con cái học hành:
Có địa vị, chức vụ trong xã hội 11,7%
Để kiếm tiền 15,4%
Thoát khỏi lao động chân tay 16,3%
Có nghề nghiệp ổn định 51,1%
Trở thành người có ích cho xã hội 70,4%
2.2. Phương pháp hệ thống - loại hình với thủ pháp “năm định”
Để khắc phục tính chủ quan và tính tương đối của giá trị văn hoá, chúng tôi áp dụng phương pháp hệ thống - loại hình với thủ pháp “năm định”. Để xác lập hệ giá trị cho một đối tượng văn hóa, cần thực hiện năm bước như sau (x. bảng 1).
Bảng 1: Phương pháp hệ thống - loại hình với thủ pháp “năm định”
Một sự vật, hiện tượng có thể có giá trị trong hệ toạ độ này, nhưng lại là phi giá trị trong một hệ toạ độ khác. Trong hệ toạ độ gốc, không có sự vật / hiện tượng nào là phi giá trị. Phi giá trị CÓ THỂ xảy ra khi một hiện tượng được đặt vào hệ toạ độ với thông số thay đổi. Việc thay đổi một trong 3 trục của hệ toạ độ dẫn đến một trong hai khả năng: (a) Biến một giá trị trở thành phi giá trị (vd: mắm tôm từ thời gian “trong bữa ăn” chuyển qua thời gian “trong cuộc họp”); (b) Biến một giá trị này thành giá trị khác (vd: cuốn sách từ người trí thức sang bà ve chai).
Hệ thống các loại hình văn hoá là cơ sở quan trọng nhất cho phép xác lập một danh mục mang tính hệ thống các phẩm chất cần và đủ tiêu biểu trên cơ sở thực hiện chuỗi thao tác so sánh, lựa chọn. Hai bước định tính và định lượng mang tính quyết định trong việc xác lập các giá trị từ danh mục các phẩm chất. Cuối cùng, bước định hệ cho các giá trị thu được giúp tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh các giá trị cùng các hệ quả và hậu quả của chúng.
Hệ giá trịvăn hoá của một dân tộcbao gồm toàn bộ những giá trị mà chủ thể (dân tộc) của nền văn hoá đó đã tích lũy được, bao gồm tổng cộng hàng triệu gía trị, cả vật chất lẫn tinh thần. Hàng triệu giá trị cụ thể này lại luôn biến động, nên thực chất toàn bộ hệ giá trị văn hoá của một dân tộc là không đếm được, không thể bao quát được.
Toàn bộ hệ giá trị văn hoá đó bắt đầu từ cái gốc là hệ giá trị bản sắc văn hoá. Hệ giá trị bản sắc văn hoá chỉ gồm giá trị tinh thần, có số lượng hữu hạn. Chính vì vậy, ta có có thể thông qua hệ giá trị bản sắc để bao quát, quản lý toàn bộ hệ giá trị dân tộc – “nhất dĩ quán chi” theo cách nói của Khổng Tử.
3. Hệ giá trị của văn hoá truyền thống Việt Nam
3.1. Giá trị bản sắc văn hoá Việt Nam: lịch sử vấn đề
Đào Duy Anh trong “Việt Nam văn hóa sử cương” từng nói đến 7 giá trị có thể xem là bản sắc văn hoá Việt: (1) “Sức ký ức” [trí nhớ] tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác; (2) Ham học, thích văn chương; (3) “Ít mộng tưởng” [thiết thực]; (4) “Sức làm việc khó nhọc” [cần cù] ở mức độ “ít dân tộc bì kịp”; (5) “Giỏi chịu… khổ và hay nhẫn nhục”; (6) “Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa”; (7) Khả năng “bắt chước, thích ứng và dung hóa rất tài” [Đào Duy Anh 1938/1998].
Trần Văn Giàu trong cuốn “Giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam” cũng nêu lên 7 giá trị mà ông cho là đặc thù của văn hoá Việt: (1) Yêu nước; (2) cần cù; (3) anh hùng; (4) sáng tạo; (5) lạc quan; (6) thương người; (7) vì nghĩa [Trần Văn Giàu 1980/1993].
Tác giả người Ý Claude Falazzoli trong cuốn “Việt Nam giữa hai huyền thoại” nói đến 7 giá trị của người Việt là: (1) Ý thức “giữ phẩm giá, không chịu để mất nó trong bất cứ thử thách nào”; (2) “Nết cần cù có thể lấp biển”; (3) “Lịch thiệp, tế nhị… khiến cho không khí ở đây không thô lỗ và nặng nề”; (4) “Một sự tinh tế cố tình chẻ sợi tóc làm tư”; (5) “Tính dè dặt, kéo dài sự cân nhắc, xét đoán, quyết định”; (6) “Tính thực dụng… khả năng thích ứng khéo léo và sáng suốt với mọi tình huống”; (7) “Đặc biệt lãng mạn và đa cảm” [Palazzoli Claude 1981].
Nghị quyết 5 (khóa VIII) của BCH Trung Ương Đảng CSVN về việc “Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” kể ra 5 “giá trị bền vững, được vun đắp trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc” là: (1) Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; (2) Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng (gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc); (3) Lòng nhân ái, khoan dung; trọng nghĩa tình, đạo lý; (4) Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; (5) Sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống [Đảng CSVN 1998: 23].
Những quan niệm tương tự như vậy còn nhiều, nhưng chỉ qua bốn ý kiến tiêu biểu trên cũng thấy rằng: (1) các đặc trưng giá trị được nêu lên khá xác đáng; (2) có nhiều giá trị trùng lặp giữa các tác giả thể hiện sự thống nhất cao; (3) tuy nhiên tất cả đều là những nhận xét cảm tính, thiếu sức thuyết phục khoa học.
3.2. Giá trị bản sắc văn hoá Việt Nam: hệ thống 5 đặc trưng
Áp dụng phương pháp hệ thống - loại hình với thủ pháp “năm định” nêu trên, chúng tôi xác định được một hệ thống 5 đặc trưng bản sắc của văn hoá Việt Nam là (1) Tính cộng đồng (làng xã); (2) Tính ưa hài hòa; (3) Tính trọng âm; (4) Tính tổng hợp; (5) Tính linh hoạt.
Hình 2 và bảng 2 minh họa cho bước 3+4 trong việc định tính và định lượng giá trị của đặc trưng “tính linh hoạt” (giá trị văn hoá Việt Nam) trong so sánh với đặc trưng “tính nguyên tắc” (giá trị văn hoá phương Tây).
Hình 2: Sơ đồ thang giá trị của đặc trưng “nguyên tắc” và “linh hoạt”
(dấu + và – thể hiện đặc trưng dương/âm trong sự so sánh theo từng cặp)
“Linh hoạt” và “nguyên tắc” là hai đặc trưng giá trị ở hai loại hình văn hoá khác nhau, mang tính tương đối, tính chủ quan. Ở cực kia của thang độ là cặp đặc trưng phi giá trị “máy móc” và “tùy tiện”. Bốn đặc trưng này tạo nên sáu thang giá trị khác nhau: linh hoạt – nguyên tắc, linh hoạt – tùy tiện, linh hoạt – máy móc, nguyên tắc – máy móc, và nguyên tắc – tùy tiện. Nằm giữa hai thang dộ “linh hoạt – tùy tiện” và “nguyên tắc – máy móc” là hai đặc trưng khách quan “ổn định” và “biến đổi” – đó chính là hai trị giá. Nằm ở tâm của toàn bộ tiểu hệ này là một trị giá bậc cao hơn, một siêu trị giá – đó là cái bất biến trong cái toàn biến, cái tĩnh nằm trong cái động. Đến lượt mình, cái bất biến này lại chứa đựng cái biến; cái động này lại chứa đựng cái tĩnh bậc cao hơn. Trên thực tế, cái siêu trị giá này không có một nền văn hoá cụ thể nào đạt tới được – đó là chúa, là thượng đế – chính vì vậy mà trong các ngôn ngữ tự nhiên, nó không được thể hiện bằng một tên gọi cụ thể nào.
Bảng 2: Phương pháp hệ thống - loại hình với thủ pháp “năm định”
áp dụng cho đặc trưng “nguyên tắc” và “linh hoạt”
Từng đặc trưng có thể gặp ở các nền văn hoá khác, nhưng cả 5 trong tính hệ thống của nó là cần và đủ để nhận diện và khu biệt văn hoá Việt Nam.
Mối tương quan giữa các thành tố và các đặc trưng giá trị bản sắc của văn hoá Việt Nam:
Hình 3: Sơ đồ tương quan giữa các thành tố
và các đặc trưng giá trị bản sắc của văn hoá Việt Nam
Bảng 3 tổng hợp 5 giá trị đặc trưng cùng tất cả các hệ quả tốt và các hậu quả xấu.
Bảng 3: Hệ thống các giá trị đặc trưng bản sắc cùng các hệ quả và hậu quả
Hệ thống 5 tính cách này cho phép bao quát hết mọi giá trị bộ phận của văn hoá Việt Nam. Các đặc trưng mà Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Claude Palazzoli, Nghị quyết TƯ 5 nói đến cũng đều có thể quy về 5 giá trị đặc trưng này. Bảng 4 thể hiện mối tương quan đó[4].
Bảng 4: Nhìn lại những ý kiến về tính cách văn hoá Việt
4. Phương hướng chuyển đổi
hệ giá trị của văn hoá truyền thống Việt Nam
4.1. Đường đi và đích đến
Hệ giá trị Việt Nam hiện hành trong so sánh với đích mà chúng ta hướng đến được trình bày trong bảng 5.
Bảng 5: Hiện trạng và đích đếncủa văn hoá Việt
Phát triển là quá trình giải quyết mâu thuẫn. Giai đoạn nào cũng có mâu thuẫn. Để tránh mò mẫm, phải phân biệt được mâu thuẫn chính (mâu thuẫn mẹ) và mâu thuẫn phụ (mâu thuẫn con). Mâu thuẫn chínhtrong sự phát triển của Việt Nam hiện nay chính là ở cái chất nông nghiệp, nông thôn trong truyền thống(giá trị văn hoá bản sắc), và cái chất công nghiệp, đô thị trong mục tiêu (định hướng giá trị cho hiện tại và tương lai).
Mọi vấn đề, hiện tượng nảy sinh trong đời sống đều là hệ quả của mâu thuẫn này. Việc phá cành bẻ cây trong các lễ hội hoa Hà Nội. Việc mở rộng thủ đô quá mức. Các hiện tượng phong trào (làm mía đường, cảng biển, lập đại học, nhà máy thép, khu phố văn hoá, cải cách giáo dục, ...).
Giai đoạn 2011-2020, trong khi kinh tế tiếp tục đi lên từng khu vực, từng bộ phận thì truyền thống văn hoá vẫn tiếp tục níu kéo, cản trở sự phát triển ấy.
Sự níu kéo, cản trở này diễn ra một cách tự phát. Cái chất văn hoá nông nghiệp, văn hoá nông thôn ở những mức độ khác nhau nằm sâu trong tiềm thức mỗi người Việt Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ nông dân đến trí thức, từ người Việt trong nước đến người Việt ở nước ngoài.
Vì lẽ văn hoá truyền thống Việt Nam là hạt nhân của sự ổn định, bền vững, nên cần phải nghiêm túc nghiên cứu các hình thái biểu hiện của sự níu kéo, cản trở này mới có thể đưa văn hóa thực sự trở thành động lực của sự phát triển, tác động vào quá trình phát triển mọi mặt của dân tộc.
4.2. Quy luật vận động
Trong lịch sử, văn hoá Việt Nam đã ba lần chuyển đổi: tiếp nhận văn hoá Trung Hoa (tk I-XVIII), tiếp nhận văn hoá phương Tây (tk. XIX-XX), tiếp nhận văn hoá XHCN (trong những năm 50-80 tk. XX). Cùng là văn hoá gốc nông nghiệp, nhưng so với Việt Nam thuần túy nông nghiệp lúa nước, văn hoá Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Hoa phát triển rất khác.
Về cách tiếp thu, Triều Tiên, Nhật Bản tiếp thu theo cách của văn hoá trọng động là đã tiếp thu thì tiếp thu nghiêm túc, đến nơi đến chốn, rồi sau đó mới sáng tạo, phát triển theo hướng bài bản hóa(Triều Tiên tiếp thu Khổng giáo, rồi tiếp thu công nghệ phương Tây; Nhật Bản tiếp thu văn hoá Trung Hoa, Đông Nam Á và xây dựng các “đạo”, rồi tiếp thu công nghệ phương Tây).
Khác với Triều Tiên và Nhật Bản, Việt Nam sáng tạo ngay trong quá trình tiếp thu, không bao giờ tiếp thu trọn vẹn, mà luôn biến báo, làm cho cái được tiếp nhận thích nghi ngay với mình. Chính vì vậy mà ta nói văn hoá Việt Nam bền vững – đó là tính bền vững, ổn định của văn hoá nông nghiệp.
Về cách phát triển, Trung Quốc phát triển theo lối trọng động là dùng vũ lực, tạo đột biến: Phần thư khanh Nho thời Tần; đốt chùa đuổi sư hoàn tục thời Tống; phê Lâm đấu Khổng, Cách mạng văn hoá thời Mao,...
Khác với Trung Quốc, Việt Nam phát triển theo lối trọng tĩnh là từ từ, ít đột biến. Cách mạng Tháng 8 là kết quả từ từ của cả một quá trình kết hợp với sự tận dụng cơ hội từ bên ngoài là sự kết thúc Thế chiến thứ hai mang lại; trong khi Xô Viết Nghệ Tĩnh và Cải cách Ruộng đất là những trường hợp không điển hình, sản phẩm du nhập của văn hoá Liên Xô và Trung Quốc mang lại.
4.3. Những phi giá trị cần thay thế cấp bách
Trong quá trình đi lên, có rất nhiều đặc trưng phi giá trị – sản phẩm của văn hoá nông nghiệp truyền thống cần được thay thế. Song cấp bách nhất, theo chúng tôi, là hai đặc điểm hậu quả: thói tùy tiện và thói giả dối.
Thói tùy tiện có nguồn gốc ở tính linh hoạt (dễ thích nghi), là mặt trái của nó. Thói tùy tiện hiện đang chi phối mọi hoạt động trong mọi lĩnh vực. Nó cần được sớm thay bằng các giá trị có nguồn gốc từ loại hình văn hoá trọng động là ý thức pháp luật và cách làm việc theo quy trình, bài bản.
Xã hội Việt Nam truyền thống xây dựng trên nền tảng văn hoá nông nghiệp, đơn vị cơ bản là làng xã với đặc điểm là dân số không đông, mọi người đều quen biết nhau, nên con người ứng xử với nhau theo tình nghĩa và xã hội vận hành theo hương ước, luật tục. Xã hội Việt Nam hiện nay lại là một xã hội đang đô thị hóa, công nghiệp hóa. Đô thị có đặc điểm là rất đông người, công nghiệp có đặc điểm là mọi việc phải tuyệt đối tuân theo quy trình, quy định. Với một xã hội mà số lượng người thì quá đông, mọi người hầu như không quen biết nhau như vậy thì nền tảng để duy trì sự ổn định của xã hội không thể là tình nghĩa, đạo đức, mà phải là pháp luật, quy trình, quy định. Pháp luật mới là yếu tố mang tính quyết định cho trật tự của xã hội đô thị, còn việc giáo dục, rèn luyện ý thức chỉ là những yếu tố hỗ trợ, phải xây dựng dài lâu.
Việt Nam hiện nay là điển hình cho một xã hội đang chuyển mình. Nếp sống văn hoá nông nghiệp truyền thống dựa trên tình nghĩa gần như đã bị phá vỡ, trong khi nếp sống của văn hoá đô thị và công nghiệp dựa trên pháp luật thì chưa hình thành. Trong khi các thủ tục hết sức phiền hà thì hình thức phạt lại không đủ sức răn đe, khiến người dân sẵn sàng làm sai để nộp phạt còn hơn là làm đúng theo quy trình thủ tục phức tạp. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những rối loạn trong xã hội và tình trạng tội phạm ngày một gia tăng về tính chất nghiêm trọng cũng như quy mô, số lượng. Có pháp luật chưa đủ mà điều quan trọng hơn là pháp luật ấy phải được thực thi một cách nghiêm túc. Hiện nay việc thực thi pháp luật rất tùy tiện, cảm tính, thiếu công bằng, do vậy pháp luật càng không được tôn trọng.
Muốn chấn chỉnh tình trạng này một cách có hiệu quả thì cần bắt đầu không phải từ việc giáo dục hay xây dựng ý thức công dân, mà phải từ pháp luật và thực thi pháp luật. Việc cấm đốt pháo và buộc đội nón bảo hiểm thực hiện được một cách khá dễ dàng và hiệu quả cao cho thấy mấu chốt của vấn đề không phải ở người dân mà là ở bộ máy nhà nước. Nếu luật pháp đủ chặt chẽ, hình phạt đủ nặng để có sức răn đe, việc thi hành luật pháp đủ nghiêm minh, quan chức các cấp đủ gương mẫu, bộ máy nhà nước đủ trong sạchthì các hiện tượng lộn xộn trong xã hội và tình trạng tội phạm sẽ không còn lý do để tồn tại nữa.
Đặc trưng phi giá trị thứ hai cần phải loại bỏ cấp bách là thói giả dối. Nguồn gốc của thói giả dối là truyền thống ứng xử khéo léo, tế nhị – “ở sao cho vừa lòng mọi người” – cộng với sự áp đặt của dư luận cộng đồng và sự áp đặt của cách quản lý quan liêu. Hiện nay sự giả dối lan tràn khắp nơi. Người nghỉ hưu nói khác khi đương chức, trong hội nghị nói khác lúc uống bia, thanh toán trên giấy tờ khác với trên thực tế... Giả dối trở thành chuẩn mực, được gọi là “khéo léo, khôn ngoan”; thật thà trở thành bất thường, bị gọi là “tồ”, là “ngố”. Xã hội Việt Nam không thể chuyển đổi thành công nếu trong hệ giá trị văn hoá của nó thiếu phẩm chất trung thực.
5. Vai trò của giá trị văn hoá Nam Bộ
trong sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam
Văn hoá Nam Bộ có sự khác biệt toàn diện về hệ tọa độ C-T-K: Chủ thể văn hoá Nam Bộ gốc xưa là những lưu dân cực nghèo, những kẻ trộm cướp tù tội bị truy nã, những trí thức bất đắc chí từ miền Trung di dân vào – tất cả là những người dương tính nhất trong số những người Việt Nam âm tính. Không gian văn hoá Nam Bộ là vùng đất hoang vu nhưng màu mỡ và được thiên nhiên ưu đãi. Thời gian hình thành văn hoá Nam Bộ đúng vào lúc bắt đầu giao lưu tiếp nhận văn hoá phương Tây.
Vì vây, văn hoá Nam Bộ có thể xem là mắt xích trung gian nối kết giữa văn hoá Việt Nam truyền thống với văn hoá phương Tây. Lấy hệ giá trị bản sắc của văn hoá Việt Nam truyền thống làm gốc thì ta có thề thấy quan hệ so sánh giữa văn hoá Nam Bộ với văn hoá Việt Nam truyền thống và văn hoá phương Tây như trình bày ở bảng 6.
Bảng 6: Văn hoá Nam Bộ trong quan hệ với
văn hoá truyền thống Việt Nam và phương Tây
Trong suốt cả quá trình tồn tại của mình, Nam Bộ luôn giao lưu với văn hoá phương Tây ở mức độ cao nhất. Văn hoá Nam Bộ luôn đi đầu trong việc giao lưu tiếp biến với văn hoá phương Tây và bằng cách đó đã đóng góp rất nhiều cho việc hiện đại hóa văn hoá truyền thống Việt Nam (giao thông hiện đại, kiến trúc đô thị, báo chí, văn xuôi quốc ngữ, truyền thanh truyền hình, kinh tế hàng hóa, nghề buôn, v.v. đều hình thành từ Nam Bộ rồ mới lan ra cả nước).
Một số mặt, văn hoá Nam Bộ từng đi trước văn hoá truyền thống Việt Nam rất xa, nhưng sau năm 1975, hiện tượng Bắc hóa đã kéo lùi những thành tựu này lại và làm cho Nam Bộ tiêm nhiễm trở lai một số thói xấu của văn hoá truyền thống (điển hình như trong lĩnh vực văn hoá dịch vụ, văn hoá công sở...).
Chính Nam Bộ với việc “xé rào”, “bung ra”, “buôn gạo”, v.v. vào đầu những năm 1980 đã phá vỡ lối quản lý “ngăn sông cấm chợ” trì trệ và tạo tiền đề cho Đổi mới thành công. Từ sau Đổi mới, Nam Bộ lại tiếp tục đi đầu cả nước trong các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ, siêu thị, chung cư cao cấp, công nghiệp quảng cáo, công nghệ thông tin, khu chế xuất, khu công nghệ cao, v.v.
Có thể nói, hệ giá trị văn hoá Nam Bộ đóng một vai trò quan trọng không thể thay thế trong sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Axiology. - http://en.wikipedia.org/wiki/Axiology
2. Axiology. - New World Encyclopedia. http://www.newworldencyclopedia.org/entry/Axiology
3. Đảng CSVN 1998: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. – H.: Nxb. Chính trị Quốc gia.
4. Đào Duy Anh 1938/1998: Việt Nam văn hoá sử cương. – NXB Tổng hợp Đồng Tháp.
5. Đoàn Văn Chúc 2008: Giá trị xã hội (social value). – Trong cuốn: Bùi Quang Thắng (cb). 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hoá. – H.: NXB KHXH, tr. 117-136.
6. Endruweit G. và Trommsdorff G. 2002: Từ điển xã hội học (Nguyễn Hữu Tâm và Nguyễn Hoài Bão dịch từ tiếng Đức). – H.: NXB Thế giới.
7. Hồ Sĩ Quý 1999/2006: Về giá trị và giá trị châu Á. - H.: NXB Chính trị Quốc gia.
8. Hồ Sĩ Quý 2007: Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa - con người - nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế (về kết quả nghiên cứu của đề tài KH-CN cấp nhà nước KX.05.010). – Tạp chí Thông tin KHXH. -http://www.issi.gov.vn/tintuc/mlnewsfolder.2007-10-22.6968432719/mlnews.2007-10-22.1643282019
9. Palazzoli Claude 1981: Le Vietnam entre deux mythes. – Paris: Economica.
10. Phạm Minh Hạc (cb) 2007: Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEO PI-R cải biên. – H.: NXB Khoa học xã hội
11. Saussure, F. de 1973: Giáo trình Ngôn ngữ học Đại cương (Cours de linguistique génerale). – H.: NXB KHXH.
12. Singapore 1997: Văn minh tinh thần Singapo. – NXB Chính trị Quốc gia.
13. Trần Văn Giàu 1980: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. – H.: Nxb KHXH.
14. Value (personal and cultural). - http://en.wikipedia.org/wiki/Value_(personal_and_cultural)
15. Дробницкий О.Г.1978:Ценности. - B кн.: “Большая советская энциклопедия”,3-е издание, том29. - Москва: Изд. Советская Энциклопедия.
16. Губман Б.Л. 1998: Губман Б.Л.Ценности. - B кн.:“Культурология ХХ в. Энциклопедия”, Т.2. –СПб.: Университетская книга + “Алетейя”,1998. Mục từ “”, c. 341-342.
17. ЦенностиБЭC 1999-2000. - B кн.: Большой энциклопедический словарь. - Москва: Изд. «Большая Российская энциклопедия», 1999-2000.
[1]“ЦЕННОСТИ -важнейшие компоненты человеч. культуры наряду с нормами и идеалами” [Губман Б.Л. 1998].
[2] Nguyên bản tiếng Đức “Der Formalismus in der Ethik und die materiale Wertethik”, bản dịch tiếng Anh: “Formalism in Ethics and Non-Formal Ethics of Values”.
[3] Đoàn Văn Chúc phân biệt giá trị, chuẩn mực và tiêu chuẩn như sau: giá trị là mục đích của hành động; hành động thực hiện theo chuẩn mực; chuẩn mực tồn tại dưới dạng thể chế thông qua những tiêu chuẩn cụ thể [Đoàn Văn Chúc 2008: 119-120].
[4]10 đặc điểm (tốt và xấu) của người Việt theo khảo sát của một viện nghiên cứu xã hội Mỹ cũng không vượt ra khỏi các hệ quả và hậu quả của 5 đặc trưng đã nêu: (1) Cần cù lao động, song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng. (2) Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động. (3) Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm). (4) Vừa thực tế, vừa mơ mộng, nhưng không có ý thức nâng lên thành lý luận. (5) Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, nhưng ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không còn mục tiêu tự thân của nhiều người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn học vì sĩ diện, để kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê). (6) Xởi lởi, chiều khách song không bền. (7) Tiết kiệm, nhưng cũng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời…). (8) Có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn bần hàn. Trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này ít khi xuất hiện). (9) Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, nhưng nhiều khi hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái lặt vặt, đánh mất đại cục. (10) Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng). - http://vietbao.vn/Van-hoa/Mau-co-bac-va-canh-bac-cuoc-doi/70063527/181/