1. Toàn cầu hóa văn hóa và ngôn ngữ
Năm 1992, sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt, cơ chế kinh tế thị trường nhanh chóng được hầu hết các quốc gia trên thế giới chấp nhận, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc lúc bấy giờ là Boutros Galy đã có một câu khái quát nổi tiếng: “Thế giới của chúng ta thực sự đã bước vào thời đại toàn cầu hóa”.
Dưới tác động của những tiến bộ trong tin học và viễn thông, sự giao lưu rộng rãi diễn ra trên toàn cầu trong mọi lĩnh vực. Từ toàn cầu hóa trong kinh tế, nó kéo theo toàn cầu hóa trong văn hóa, ngôn ngữ, xã hội...
Dù muốn hay không, toàn cầu hóa nói chung, “toàn cầu hóa văn hóa” và “toàn cầu hóa ngôn ngữ” nói riêng, hiện đang là xu hướng không thể nào đảo ngược được. Mở đầu bài “Cái tất yếu thời toàn cầu hóa” đăng trên báo “Thế giới & Việt Nam” tháng 5-2009, tác giả Minh Nhân đã viết:
““Khi tiếng mẹ đẻ được thay thế bằng tiếng của nước ngoài, thì nguy cơ mai một của một nền văn hóa dân tộc là không tránh khỏi”, đó là cảnh báo của GS. TSKH. Trần Ngọc Thêm, ĐH khoa học xã hội và Nhân văn TP. HCM. Tuy nhiên, trong thời toàn cầu hóa, từ các phòng thí nghiệm hóa học ở Jordan cho đến các thư viện trường đại học ở Campuchia hay các lớp học ở Thụy Điển, tất cả đều sử dụng chung một ngôn ngữ. Đó là tiếng Anh, thứ tiếng đang ngày càng trở thành ngôn ngữ của giáo dục đại học và khoa học trên khắp thế giới. Sự phát triển của nó song hành cùng sự hội nhập của nền kinh tế thế giới, mà dẫn đầu là nước Mỹ”[i].
Minh Nhân nói đúng.
Có thể có người sẽ cho rằng chúng tôi, với tư cách một nhà nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá, đã tự mâu thuẫn với mình khi, một mặt cảnh báo và mong muốn bảo tồn ngôn ngữ và văn hoá dân tộc, mặt khác lại tán thành phe đối lập mà thừa nhận rằng sự mai một của chúng là không tránh khỏi!
Xin thưa, hoàn toàn không mâu thuẫn chút nào.
Nhà khoa học có đặc tính là không để tình cảm riêng chi phối, mà chỉ để mình bị chi phối bởi chân lý khách quan. Đứng trước chân lý khách quan thì nhà khoa học sẽ đi tìm quy luật. Và chính quy luật sẽ giúp giải quyết mâu thuẫn một cách hiệu quả nhất.
Ở đây, “tình cảm riêng” là mong muốn bảo tồn ngôn ngữ và văn hoá dân tộc. “Chân lý khách quan” là xu hướng tất yếu của sự toàn cầu hoá văn hoá và ngôn ngữ. Vậy “quy luật” ở đây là những gì?
2. Một số quy luật chi phối hiện trạng phát triển ngôn ngữ và văn hoá
Đặc điểm của mọi quy luật là bao giờ cũng rất đơn giản. Xin nhắc ra đây một số chân lý mang tính quy luật, mà nội dung có thể là rất tầm thường, nhưng rất hữu ích trong việc đánh giá những biến động đang xảy ra với ngôn ngữ và văn hoá.
2.1. Mọi hoạt động đều làm phát sinh ra phản lực.
Toàn cầu hoá là xu hướng hòa nhập vào cái chung (quốc tế), nó làm phát sinh ra phản lực là sự thu hẹp (thậm chí triệt tiêu) cái riêng (dân tộc), trước hết là văn hoá và ngôn ngữ. Trung bình cứ khoảng 2 tuần, thế giới lại bị mất đi một ngôn ngữ; chỉ riêng ở Nga, từ sau khi Liên Xô sụp đổ đến nay đã có ít nhất 20 ngôn ngữ diệt vong[ii]. Nguy cơ thu hẹp hoặc triệt tiêu cái riêng đến lượt mình làm phát sinh ra phản lực tiếp theo là nhu cầu bảo tồn. Chính cái phản lực bậc hai này là nguồn gốc của trào lưu quan tâm đến việc bảo tồn văn hoá và sự phát sinh các phong trào chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa ly khai nở rộ trên phạm vi toàn thế giới.
Theo nguyên lý khí động học thì phản lực không làm triệt tiêu động lực sinh ra nó mà chỉ giúp vũ trụ duy trì trạng thái cân bằng.
2.2. Đã là xu hướng tất yếu thì không nên chống lại (bảo thủ), cũng không nên hùa theo (a dua), mà thái độ hợp lý hơn cả là tìm cách lợi dụng nó.
Không nên hùa theo, vì hùa theo là làm thay đổi mình quá nhanh. Cũng không nên chống lại, vì chống lại là không thể, vô ích và có hại. Trên bàn cờ chính trị thế giới, hiển nhiên là mỗi quốc gia theo đuổi những mục tiêu khác nhau riêng của mình. Vấn đề “chủ nghĩa đế quốc văn hoá” và “chủ nghĩa đế quốc ngôn ngữ” là hoàn toàn có thật. Không chỉ riêng Mỹ, mà các cường quốc khác như Pháp, Đức, Liên Xô[iii], Trung Quốc, v.v. đều từng đã hoặc đang sử dụng văn hoá, ngôn ngữ và nhiều thứ khác như những “sức mạnh mềm” hoặc kết hợp giữa “sức mạnh cứng” với “sức mạnh mềm” (thành cái mà họ gọi là “sức mạnh thông minh”) vào việc chinh phục các quốc gia / dân tộc khác một cách tinh vi. Các quốc gia nhỏ có tránh được “sức mạnh mềm” của cường quốc này thì cũng sẽ rất dễ rơi vào ảnh hưởng “sức mạnh mềm” của cường quốc khác.
Cả hùa theo và chống lại đều là những cách tự sát hiệu quả. Hùa theo trong việc phát triển hệ thống truyền thông gần như vượt quá khả năng kiểm soát về mặt văn hoá, một số kênh truyền hình của chúng ta hiện đang vô tình đầu độc trẻ em bằng những phim nhiều chất bạo lực, những lời mời gọi nhắn tin và gọi điện đến “Tổng đài chị Thỏ Ngọc”, v.v. Hậu quả là màu sắc thương mại thâm nhập vào mọi thứ quan hệ, bạo lực gia đình, học đường gia tăng đến mức báo động. Chống lại hiện tượng mại dâm, chúng ta rơi vào tình trạng nạn mại dâm lan tràn từ thành thị đến nông thôn, số người nhiễm HIV hàng năm tăng nhanh với tốc độ chóng mặt. Tất cả những cái đó là gì nếu không phải là tự sát? Trong khi đó nhiều quốc gia vốn rất bảo thủ đã “chấp nhận” mại dâm một cách dè dặt, nhờ vậy mà khoanh vùng và kiểm soát được nó, thậm chí còn khai thác nó để phát triển du lịch rất hiệu quả (trường hợp Thái Lan).
Việc chọn cách ứng xử nào phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng cách ứng xử của Thái Lan là ví dụ điển hình cho triết lý không chống được thì lợi dụng. Việc “lợi dụng” này luôn có thể thực hiện được nhờ vạn vật trong vũ trụ đều tuân thủ sự tồn tại của luật âm dương.
2.3. Theo luật âm dương, cái gì cũng có hai mặt.
Hiện tượng mà chúng ta đang gọi là sự bát nháo trong sử dụng ngôn ngữ hiện nay làm cho không chỉ những người yêu tiếng Việt, mà bất kỳ ai dùng tiếng Việt đều cảm thấy bực mình. Nhưng dẫu sao nó cũng có mặt tích cực là làm tăng khả năng lựa chọn, làm giàu ngôn ngữ, tạo nên một sự phát triển nhanh chóng. Không phải là tất cả mọi thứ lai tạp, sáng tạo của mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi nghề đều sẽ được tiếng Việt chấp nhận hết. Nhưng chúng tạo nên một phổ lựa chọn rộng hơn trước rất nhiều. Phải thừa nhận rằng những biến thể từ được tạo ra theo phương thức cấu tạo từ “lược bỏ nguyên âm chính” của “tuổi teen” (như iu = yêu, nhìu = nhiều, bít = biết, hỉu = hiểu, v.v.) giúp cho việc diễn đạt trong những phạm vi nhất định trở nên thú vị hơn, dễ thương hơn hẳn.
Hay việc dùng tiếng Anh. Ta hãy tưởng tượng: nếu những cố gắng Việt hóa Hệ điều hành Windows và các phần mềm của những người yêu tiếng Việt thành công thì điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắn là việc học tin học không những không dễ hơn mà, ngược lại, sẽ khó và chậm hơn rất nhiều.
Ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng vào bậc nhất của văn hoá. Ngôn ngữ là một tài sản vô cùng quý giá của dân tộc, nơi lưu giữ ký ức của dân tộc cùng vô vàn thông tin văn hoá. Song suy cho cùng, tất cả những điều đó đều là những giá trị phụ, chức năng phụ của ngôn ngữ. Chức năng làm công cụ giao tiếp mới là chức năng chính duy nhất không ai phủ nhận được của ngôn ngữ. Sự đa dạng của ngôn ngữ tuy có giá trị là cái chỉ báo cho sự phong phú về văn hoá, nhưng xin đừng quên rằng mặt phản giá trị của nó còn lớn hơn – đó chính là rào cản lớn nhất cho việc giao tiếp, là tháp Babilon chia rẽ nhân loại, cản trở hội nhập. Vì vậy mặt tích cực của toàn cầu hoá ngôn ngữ chính là việc phá bỏ rào cản này.
2.4. Tự nhiên tồn tại và phát triển được đến ngày nay là nhờ luật cạnh tranh.
Lâu nay, cả các quốc gia tư bản lẫn các quốc gia XHCN đều luôn nói đến dân chủ nhưng trong lĩnh vực ngôn ngữ, cả bên này lẫn bên kia đều có những quốc gia chủ quan duy ý chí nên đã lạm dụng quyền lực, không tôn trọng quy luật khách quan. Biểu hiện nhẹ của sự áp đặt này là sáng tạo và tuyên truyền cho những cách nói cách viết cứ tưởng là trong sáng (như cán bộ coi thi thay cho giám thị, học sinh đại học thay cho sinh viên, v.v.), mà không biết rằng thực chất đã thay một từ Hán-Việt này bằng hai từ Hán-Việt khác. Biểu hiện nặng của sự áp đặt này là tự cho mình cái quyền ra điều luật này điều luật kia buộc dân chúng được sử dụng từ này mà cấm sử dụng từ kia (như ở Pháp).
Tuy nhiên, ngôn ngữ là một lĩnh vực đặc biệt, nó không chấp nhận quyền lực, mà chỉ tuân theo những quy luật văn hoá. Chẳng hạn, văn hoá Pháp vốn có tính cực đoan và bảo thủ. Vì vậy, trong lĩnh vực ngôn ngữ, các quy định mang tính pháp luật do Chính quyền đưa ra không phải lúc nào cũng được người dân Pháp tuân thủ. Điều này thể hiện rõ qua việc Chính phủ Pháp năm 2000 đã quy định phải sử dụng tiếng Anh trong hoạt động tại phi trường De Gaulle (Paris) để đảm bảo an toàn không lưu, thế nhưng phi công Pháp vẫn cứ dùng tiếng Pháp trong trao đổi. Hoặc năm 1994, Bộ trưởng Giáo dục Pháp Claude Allègre đã yêu cầu các nhà khoa học trình bày các kết quả nghiên cứu của mình bằng tiếng Anh, song tuyệt đại đa số các tài liệu khoa học Pháp vẫn chỉ viết bằng tiếng Pháp mà thôi[iv].
Với toàn cầu hoá và hội nhập, một trong những thành tựu quan trọng bậc nhất là quá trình dân chủ hóa, tạo nên sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh. Trong hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế, công ty nào yếu kém sẽ bị phá sản, kể cả công ty nhà nước. Trong hội nhập và toàn cầu hóa văn hoá, những nền văn hóa nào yếu ớt sẽ bị suy thoái hoặc tiêu vong, còn nền văn hóa nào có sức sống mãnh liệt (dù nhỏ) sẽ tồn tại và phát triển. Trong hội nhập và toàn cầu hóa ngôn ngữ cũng vậy.
Có thể nói chưa bao giờ ngôn ngữ được phát triển dân chủ, đa dạng, phong phú như ngày nay. Nếu như trước đây, việc “chuẩn hóa ngôn ngữ” quy định lấy tiếng thủ đô làm chuẩn, thì ngày nay trăm hoa đua nở, các đài truyền hình địa phương mọc ra như nấm. Đài biết làm ăn lớn thì như HTV (Đài truyền hình Tp. HCM), nhỏ thì như BTV (Đài truyền hình Bình Dương) đều có thể vươn ảnh hưởng ra toàn quốc, đưa cách phát âm, cách dùng từ của địa phương mình hòa nhập vào ngôn ngữ chung của toàn dân. Nhờ vậy mà một trong những rào cản văn hoá quan trọng nhất là ngôn ngữ đang được gỡ bỏ khá nhanh. Ngày trước người miền này nói miền kia không hiểu, người thủ đô thì sinh ra kiêu ngạo tưởng rằng cái gì mình cũng nhất. Ngày nay rất nhiều từ ngữ, cách nói của các địa phương đã thâm nhập vào phương ngữ Bắc Bộ, rồi đi vào làm giàu cho ngôn ngữ toàn dân. Cùng với đóng góp trong lĩnh vực kinh tế và văn hoá, Nam Bộ đã đóng góp cho ngôn ngữ toàn dân vô số những từ ngữ và cách nói đặc thù như hết ý, hết xảy, nhậu, xỉn, lai rai, bông trái, trễ, dơ, mắc cỡ, v.v.
Không ai phủ nhận rằng xu hướng toàn cầu hoá ngôn ngữ hiện nay về cơ bản thực chất là Anh ngữ hóa. Đây đó từng có những cố gắng chống lại xu hướng này, nhưng thường kết thúc bằng thất bại vì nó không đơn thuần chỉ là ngôn ngữ hay văn hoá mà còn gắn với kinh tế.
Khi Singapore tách khỏi Malaysia vào năm 1965, hai nước có trình độ phát triển gần như nhau. Song Thủ tướng Lý Quang Diệu đã đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ quốc gia vào năm 1970 rồi hoàn tất việc này vào năm 1984 - và đây là một trong những yếu tố rất quan trọng giúp đảo quốc này thành công. Trong khi đó thì năm 1969 Chính phủ Malaysia ban hành luật lấy tiếng Bahasa làm ngôn ngữ trong nhà trường thay cho tiếng Anh để xóa bỏ tàn dư chủ nghĩa thực dân và hoàn tất việc này vào năm 1982. Việc làm tốt đẹp đầy tinh thần dân tộc này của Chính phủ Malaysia dẫn đến hậu quả là tình trạng thất nghiệp tăng cao vì nhiều thanh niên Malaysia không kiếm được việc làm trong các công ty quốc tế. Tình trạng thất nghiệp này chỉ bắt đầu thay đổi khi Thủ tướng Mahathir Mohamad quyết định đưa tiếng Anh trở lại trường học trước khi ông mãn nhiệm vào cuối năm 2002[v].
Nhưng mặt khác, chính tiếng Anh cũng không phải là ngôn ngữ chiến thắng hoàn toàn: Tiếng Anh mà thế giới đang dùng hiện nay đâu có phải là tiếng Anh chính thống của Vương quốc Anh? Toàn cầu hoá đã khiến cho tiếng Anh chính thống trong khi được quốc tế hóa, thì đồng thời cũng bị bản địa hóa. Quan niệm “tiếng Anh chuẩn” từ lâu đã không còn được ai nhắc đến. Tiếng Anh của nước Anh từ lâu đã khiêm tốn lui về sống cuộc đời của một phương ngữ bên cạnh “tiếng Anh Mỹ”, “tiếng Anh Úc”, “tiếng Anh Ấn Độ”, “tiếng Anh Singapor”, “tiếng Anh Trung Quốc”, “tiếng Anh Nhật Bản”, v.v.
Giữ chân tiếng Anh còn có việc quá trình toàn cầu hoá đi đôi với khu vực hóa (như một phản lực), nhờ đó mà các ngôn ngữ khu vực (như tiếng A-rập, tiếng Hoa,...) cũng trở nên lớn mạnh. Cùng với nó, những cường quốc như Trung Quốc có chính sách rất rõ ràng trong việc phát triển tiếng Hoa làm sức mạnh mềm. Từ năm 2003, Trung Quốc bỏ tiền tổ chức “Năm văn hóa Trung Quốc” ở một số nước: Pháp (2003), I-ta-li-a (2006), Nga (2007) rồi tiếp theo là Tây Ban Nha, Hy Lạp… Từ năm 2004, Trung Quốc mở Học viện Khổng Tử nhằm phổ biến tiếng Hoa (học viện đầu tiên mở tại Seoul), bảo vệ địa vị thế giới của tiếng Hoa, truyền bá văn hóa Trung Hoa, tăng cường nhận thức về Trung Quốc. Đến cuối năm 2008, Trung Quốc đã thành lập 249 học viện Khổng Tử tại 78 quốc gia và vùng lãnh thổ (Học viện Khổng Tử tại Việt Nam được phép mở năm 2009)[vi].
Tất cả những hiện tượng phức tạp đó tạo nên một thế giằng co, cạnh tranh với tiếng Anh, làm cho quá trình toàn cầu hoá ngôn ngữ không chỉ biểu hiện dưới dạng đơn cực hóa mà còn đi đôi với đa cực hóa, giảm bớt sự mất cân bằng.
Anh ngữ hóa kéo theo lạm dụng tiếng Anh, sự thâm nhập của tiếng Anh vào ngôn ngữ dân tộc. Điều đó không hẳn là xấu hoàn toàn, vì nó làm tăng lựa chọn, tạo cạnh tranh. Trong quá trình đó, cái gì phù hợp sẽ được giữ lại và phân hóa, bổ sung cho ngôn ngữ dân tộc. Cái gì không cần sẽ bị loại ra. Ví dụ: festival được dùng phổ biến, vì festival (Festival Huế) không phải là lễ hội (Hội Phủ Giày). Mail, web,… được dùng phổ biến, vì mọi từ ngữ dịch (thư điện tử, mạng máy tính,...) đều hoặc quá dài, hoặc không chính xác. Nhưng computer, mouse thì sau một thời gian dùng đã bị loại ra vì máy tính, con chuột đủ thay thế rồi.
3. Kết luận
Như vậy, nhìn trong tổng thể, việc đặt vấn đề giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ trong quan hệ với vấn đề bảo tồn văn hoá cho thấy những biến đổi về ngôn ngữ dân tộc trong kỷ nguyên hội nhập là hiện tượng tất yếu mang tính hai mặt.
Tất yếu nên không thể và không nên chọn thái độ tự vệ chống lại, mà nên đối mặt và chấp nhận.
Mang tính hai mặt nên việc phát huy mặt tích cực của nó cần coi trọng ngang với việc chuẩn hóa, giữ gìn. Văn hoá và ngôn ngữ là tài sản của toàn dân, nên việc chuẩn hóa phải được tiến hành hết sức thận trọng, không chỉ trên cơ sở kết quả nghiên cứu của giới khoa học và vai trò quyết định của chính quyền, mà còn phải tôn trọng sự đóng góp của cộng đồng, cả trẻ lẫn già, cả bình dân lẫn bác học.
Đừng vội coi tất cả những thứ không bình thường là sai chuẩn, mà cần xem độ phổ biến của hiện tượng đó đến mức nào, khuynh hướng của nó ra sao. Đừng nên quá lo lắng và phóng đại các nguy cơ: ngôn ngữ như một cơ thể sống luôn biết tự nó điều chỉnh.
[i] Minh Nhân 2009: Cái tất yếu thời toàn cầu hóa. – Báo “Thế giới & Việt Nam”, http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Ngon-Ngu/Cai_tat_yeu_thoi_toan_cau_hoa/
[ii] 2.000 ngôn ngữ quý hiếm vĩnh viễn biến khỏi trái đất? http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=46399
[iii] Liên Xô từng rất chú trọng phát huy ảnh hưởng của mình thông qua việc truyền bá tiếng Nga với việc đầu tư cho những tổ chức như МАПРЯЛ (Международная Ассоциация Преподавателей Русского Языка и Литературы - Hiệp hội Quốc tế Giáo viên Ngôn ngữ và Văn học Nga).
[iv] Mai Thanh Truyết 2009: Toàn cầu hóa ngôn ngữ. -
http://www.khoahoc.net/baivo/maithanhtruyet/120309-toancauhoangonngu.htm
[v] Alonesalem 2010: Ngôn ngữ và kinh tế toàn cầu hóa. -
http://www.hoabinhonline.com/kinh-nghiem-chien-luoc-kinh-doanh/ngon-ngu-va-kinh-te-toan-cau-hoa-132614.html
[vi] BBC 2009: Việt Nam cho mở Học viện Khổng Tử. - http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/04/090406_viet_confucius.shtml
Vietnamnet 2009: Học viện Khổng Tử - 'tấm danh thiếp' của Trung Hoa? - http://www2.vietnamnet.vn/thegioi/200911/Hoc-vien-Khong-Tu-tam-danh-thiep-cua-Trung-Hoa-876880/